Kỹ thuật nuôi cá trê vàng lai




I. Đặc điểm sinh học

     Cá trê vàng lai là kết quả của lai giống bằng phương pháp sinh sản nhân tạo giữa cá trê phi và cá trê vàng.
   
     Cá trê vàng lai có ngoại hình tương tự ,cá trê vàng, da trơn nhẵn, đầu bẹp, thân hình trụ, dẹp ở phía đuôi. Thân có màu vàng xám hoặc nâu vàng xám, phần bụng màu vàng nhạt, trên thân lốm đốm nhiều bông cẩm thạch và nhiều chấm trắng nhỏ theo chiều đứng ( thẳng góc với thân cá ).

    Cá trê vàng lai rất mau lớn, trong điều kiện nuôi với mật độ thích hợp thức ăn đầy đủ, sau 3-4 tháng nuôi cá sẽ đạt trọng lượng trung bình từ 150-200g/con. Cá sống trong môi trường nước hơi phèn và trong điều kiện nước hơi lợ ( độ mặn < 5 0/00 ). cá phát triển tốt trong môi trường nước có độ pH trong khoảng từ 5,5-8,0. Do cá có cơ quan hô hấp phụ nên sống được trong ao, đìa nước tù, chịu đựng được cả những khi hàm lượng oxy trong nước xuống thấp ( 1-2mg/l ).

    Cá trê vàng lai hoạt động, bơi lội, ăn mạnh vào buổi chiều tối hoặc ban đêm, lúc trời mờ sáng, vì vậy việc kéo lưới thu hoạch cá ( cá giống và thịt ) nếu thực hiện vào những thời gian kể trên sẽ đạt hiệu quả cao.

Mùa vụ thả nuôi thường kéo dài từ tháng 3 đến tháng 10 âm lịch hàng năm.

II. Kỹ thuật nuôi cá thương phẩm

1. Chuẩn bị ao nuôi

      Ao nuôi có diện tích từ 1.000 - 3.000m2 sẽ thuận tiện cho việc cho ăn, chăm sóc và thu hoạch.
Nếu là ao cũ: vét bùn đáy ao, lấp hang hốc, phát quang bụi rậm, phơi đáy ao 2-3 ngày, bón vôi từ 30-50kg/1.000m2 để diệt tạp và điều chỉnh độ pH của nước ao. Bón lót phân chuồng với liều lượng 100-150kg phân/1.000m2. Lấy nước qua lưới lọc vào ao để ngăn ngừa cá dữ, địch hại theo vào trong ao.

     Sau 5-7 ngày có thể thả cá vào ao nuôi được. Mực nước ban đầu lấy vào khoảng 1m, sẽ được tăng dần lên sau 1 tháng nuôi đến khi đạt độ sâu 1,2-1,5m.

    Nếu là ao mới đào: bón vôi với lượng từ 70-100kg/1.000m2 để giữ cho độ pH của nước ao từ 6-7,5 là tốt nhất.

2. Chọn cá giống

    Chọn cỡ cá đồng đều, khỏe mạnh, không bị xây xát, không bị bệnh, bơi lội nhanh nhẹn, đánh móng mạnh. Nếu ao không bị rò rỉ, có thể rút cạn nước và diệt tạp triệt để thì phải thả cá cỡ 5-6cm hoặc cá lứa ( 10-12 cm ), nhằm giảm được tỉ lệ hao hụt.

3. Mật độ thả

Nuôi đơn
               
                  Cỡ cá (cm)    Mật độ thả (con/m2)    Thời gian bắt đầu thu hoạch
               
                  3 - 4               60 - 70                          Sau 3 tháng nuôi
                  4 - 6               40 - 50                          Sau 3 tháng nuôi
                  5 - 7               30 - 40                          Sau 3 tháng nuôi
                  10 -12            20 - 30                          Sau 2,5 tháng nuôi

Nuôi ghép

   Mục đích là tận dụng hết thức ăn trong ao nuôi, có thể thả ghép với các loại cá sau: rô phi, chép, trắm cỏ, trôi. Mật độ thả cho từng cá như sau:

                 Loại cá                   Cỡ cá (cm)    Mật độ thả (con/m2)    Thời gian bắt đầu thu hoạch
             
                 Trê vàng lai            4 - 6               10                                  Sau 3 tháng (=250g/con)
                 Trôi                        6 - 8                5                                   Sau 6 tháng (=250g/con)
                 Chép                      6 - 8                3                                   Sau 6 tháng (=300g/con)
                 Rô phi                    6 - 8               10                                  Sau 4 tháng (=200g/con)
                 Trắm                      6 - 8               1 - 2                              Sau 8 tháng (=500g/con)

    Trong thời gian này thời gian thu hoạch sẽ thay đổi theo loại cá, tốc độ lớn, kích cỡ thương phẩm được thị trường ưa chuộng. Như vậy sau thời gian nuôi 3 tháng sẽ thu hoạch và thả bù cá trê vàng lai với kích cỡ lớn hơn, thường là 10 - 12cm hoặc 12 - 15cm, thả bù cá rô phi cỡ 8 - 10cm sau khi kéo lưới thu hoạch đợt 1.

4. Thức ăn nuôi cá và chăm sóc

      Cá trê vàng lai ăn tạp, rất háu ăn, có tập tính ăn gần như cá trê vàng. Thức ăn nuôi cá thường gồm các loại phụ phế phẩm của các nhà máy đông lạnh như đầu vỏ tôm, da ruột mực, đầu lòng cá, ruột sò  điệp... cám thức ăn gia súc, cám gạo, bắp xay, con ruốc, cá phân ( xay ).

      Ngoài ra để giúp tăng trưởng nhanh, ít bệnh trong quá trinh nuôi cần định kỳ bổ sung premix vitamin ( loại dùng cho heo thịt ) 1 tuần 1 lần với lượng 1 - 2% của tổng lượng thức ăn cho ăn trong ngày.

      Trong hai tuần đầu khi mới thả cá còn nhỏ nên băm thức ăn để vừa với miệng cá.

      Bắp xay nên ngâm nước cho nở khoảng 15 - 20 phút trước khi nấu với nước sôi. Sau khi nấu chính trộn với cám khô theo tỉ lệ 1/1 rồi trộn tiếp với con ruốc hoặc cá phân.

     Nếu cho ăn thức ăn tươi ( đầu tôm, lòng ruột cá... ) lượng thức ăn cho ăn trong ngày bằng 10 -15% tổng trọng lượng cá dự đoán dưới ao. Nếu dùng thức ăn tinh như cám, bắp... lượng thức ăn cho cá ăn trong ngày bằng 5 - 7% trọng lượng cá dự đoán. Trường hợp nuôi ghép thì nên dùng kết hợp thức ăn tinh với thức ăn tươi theo tỉ lệ 1/1. Nếu cá ghép trong ao đã lớn thì có thể cho cá ăn bắp hột ( xay thô ) ngâm nước mà không cần nấu chín.

    Nếu cho ăn ở những vị trí cố định trong ao, thường xuyên phải theo dõi và điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp. Tránh trường hợp cho ăn quá dư thừa làm thối bẩn nước ao tạo điều kiện cho bệnh cá phát triển.
   
    Trong thời gian nuôi cần theo dõi hoạt động của cá, màu nước trong ao. Sau 1 tháng đầu, cá tương đối lớn, có thể định kỳ lấy nước vào trong ao, cứ 5 - 7 ngày 1 lần thay khoảng 30% nước trong ao. Sử dụng nhiều thức ăn tươi thì cần chú ý thay nước thường xuyên hơn.

5. Một số bệnh

5.1 Một số bệnh trên cá hương, cá giống

    Ương cá từ cá bột lên cá hương, cá giống là giai đoạn rất quan trọng. Ở giai đoạn này da cá mỏng, rất nhạy cảm với với sự thay đổi của môi trường bên ngoài nên cá dễ bị nhiễm bệnh, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng, có khi gây chết hàng loạt.

Bệnh trắng mình

* Dấu hiệu: Thân cá có nhiều mảng trắng, cá bị tuột nhớt, râu cong quặp cá treo thân thẳng đứng với mặt nước hoặc bơi lội lờ đờ, chết rất nhanh với số lượng lớn. Bệnh có thể xảy ra ở cá bột cỡ 5 - 7 ngày tuổi, cỡ cá giống lớn 6 - 8cm vẫn có thể nhiễm bệnh này.
* nguyên nhân gây bệnh: Do vi khuẩn Flexibater columnaris, bệnh thường xảy ra ở các bể ương với mật độ dày, chất lượng nước xấu, nước bị thối bẩn do thay nước không thường xuyên. Vi khuẩn xâm nhập các cơ quan nội tạng của cá, hủy hoại mang và các tế bào ở da cá làm cá khó thở, gây chết. Ở bệnh này cùng với sự xâm nhập của vi khuẩn, nấm và nguyên sinh động vật gây bệnh cũng đồng thời xâm nhập làm cá chết rất nhanh.
* cách xử lý: Trong bề xi măng hoặc bể bạt dùng Oxytetracyline với liều lượng 10 - 20ppm kết hợp với Formalin 25 ppm ( 25ml/1m3 nước ). hoặc dùng Oxytetracyline với liều lượng 10 - 20ppm kết hợp với muối ăn.

6. Thu hoạch

     Sau 2 tháng đến 3 tháng nuôi cá sẽ đạt kích cỡ thương phẩm ( 150 - 250g/con ). Lúc này hình dáng bên ngoài của cá sẽ rất giống cá trê vàng ( chỉ khác ở chỗ u lồi xương chẩm ). Thu hoạch đợt 1 xong sẽ tiếp tục cho ăn tích cực, khoảng 10 - 15 ngày sau sẽ thu hoạch đợt 2, thường ở đợt này lượng cá thu hoạch sẽ được nhiều hơn và tương đối đồng đều về kích cỡ hơn so với đợt 1. Nếu trong ao vẫn còn 1 số cá chưa đạt quy cỡ thì sẽ nuôi vỗ tiếp tục 2 tuần nữa và thu hoạch toàn bộ. Nên thả cá giống ngay từ đầu vụ ( tháng 3 - 4 âm lịch ) để đến thời điểm thu hoạch vào tháng 6, 7, 8 âm lịch cá thịt bán được giá cao, chi phí đầu tư con giống rẻ, dễ nuôi hơn lúc cuối vụ ( do thời tiết cuối vụ thường lạnh, cá dễ bị bệnh ).

     Sau khi trừ chi phí cải tạo ao, con giống, thức ăn, công chắm sóc bảo vệ... người nuôi thường có thể được lãi 40 - 45% so với tiền vốn bỏ ra ban đầu. Thu hoạch cá vào những mùa đụng cá đồng  ( thả cá vào giữa và cuối vụ ) thì tiền lãi thu được sẽ thấp hơn do giá con giống cao, giá cá thịt rẻ, thường chỉ lãi 20 - 25% so với tiền vốn ban đầu.

HIỆN NAY TRẠI GIỐNG CỦA CHÚNG TÔI CÓ CUNG CẤP ĐẦY ĐỦ CÁ BỘT VÀ KÍCH CỠ CON GIỐNG. BÀ CON NÀO CÓ NHU CẦU NUÔI THẢ XIN VUI LÒNG LIÊN HỆ VỚI CHÚNG TÔI

RẤT HÂN HẠNH ĐƯỢC PHỤC VỤ BÀ CON!